Thứ Ba, 17 tháng 11, 2009

Nghĩ về bạn.....

Bạn có biết ngay lúc này ................

- Có ai đó rất tự hào về bạn
- Có ai đó đang nghĩ về bạn
- Có ai đó quan tâm đến bạn
- Có ai đó rất nhớ bạn

- Có ai đó muốn nói chuyện với bạn
- Có ai đó muốn ở bên bạn
- Có ai đó luôn mong sự bình yên cho bạn
- Có ai đó luôn biết ơn mọi sự cổ vũ của bạn
- Có ai đó muốn nắm tay bạn
- Có ai đó luôn muốn bạn hạnh phúc
- Có ai đó muốn tặng quà cho bạn

- Có ai đó thán phục sự mạnh mẽ của bạn
- Có ai đó yêu thương bạn vì chính bạn là bạn
- Có ai đó rất vui khi bạn là bạn của họ
- Có ai đó muốn ôm bạn vào lòng
- Có ai đó đang nghĩ về bạn, mỉm cười và thầm mong bạn ở bên họ

- Có ai đó muốn khóc trên bờ vai của bạn
- Có ai đó nghĩ về bạn suốt cả đêm
- Có ai đó luôn cần sự động viên của bạn
- Có ai đó đang muốn cười với bạn

- Có ai đó cảm thấy hạnh phúc vì bạn là bạn của họ
- Có ai đó đang nghe một bản nhạc nhắc họ nhớ về bạn
- Có ai đó lụôn tin tưởng ở bạn
- Có ai đó sẽ khóc khi đọc những dòng này và nghĩ tới bạn
- Và có ai đó muốn bạn gửi trang này cho họ.......

Hãy nhớ rằng, bạn quan trọng như thế nào đối với một ai đó......

Hãy gửi những dòng này tới nhưng người bạn của bạn để họ biết rằng, trên thế giới này có một người luôn thầm cầu mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với họ

Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2009

Ấu thơ trong tui

Hồi tôi mười ba tuổi, ở làng có phong trào con gái đi học mặc áo dài trắng. Vải bông trắng thường thôi, nhưng tụi con gái mặc vô, tà áo lửng lơ ngang đầu gối ngó cũng lạ. Sáng sớm, trống trường nện thùng thùng. Nhỏ Ngọc chưa kịp thay đồ, trên mặc áo dài, dưới còn bận chiếc quần đỏ như bông lồng đèn, bươn bả tới lớp, trông như một... ly chè đậu đỏ nước dừa.

Một tay xách bọc sách tập, một tay cầm guốc, nó tất tả chạy băng cầu khỉ. Tui đi trước, thủng thỉnh. Nhỏ Ngọc đi sau, năn nỉ không xong, nổi quạu hét um, gạt tay, xô tui té tòm xuống con rạch. Tui vô lớp trễ, ướt lóp ngóp, lại bị thầy quở. Thế mà Ngọc ngó lơ.

Một sáng, tui dậy thiệt sớm, vô lớp, trét lên bàn và ghế chỗ nhỏ Ngọc trái mắt mèo. Lông trái mắt mèo ngứa dữ dội. Phen này nhỏ Ngọc "gảy đờn" phải biết. Thế nhưng, bữa đó nhỏ Ngọc tình cờ ngồi thụt xuống bàn sau. Con nhỏ chẳng may thế mạng gãi liên hồi, nước mắt giàn giụa. Ra chơi, nhỏ Ngọc gom lá khô, đốt lửa cuối góc trường hơ cho nhỏ bạn. Thấy tui lén đi ngang, nó hiểu ngay, hét vọng theo: "Chơi xấu nghen. Con trai mà ném đá giấu tay!" Tui tức cành hông.

Giải lao, tui lẳng lặng tới bàn Ngọc. Thiệt lẹ tay, tui thả lũ sâu xanh to cỡ ngón tay cái, cho bò từ từ lên bìa cuốn tập. Tụi con gái ngẩng lên, gào thảm thiết. Người duy nhất bình tĩnh là Ngọc. Nó xé hai miếng giấy, xúc gọn lũ sâu, quẳng vèo qua cửa sổ. Rồi lao vô tui. Mặt nó trông khiếp quá! Hoảng vía, tui co giò... chạy. Mọi người trong sân được mẻ cười, khi thấy thằng con trai lộc ngộc bỏ chạy vì con nhỏ bé xíu chối chết. Kể từ lần đó, tui giận nhỏ Ngọc bầm gan. Lúc nào cũng nghĩ đến nó, vào lớp là đưa mắt nhìn nó để gầm ghè.

Thế nhưng, thiệt kỳ cục, để ý nhỏ Ngọc hoài tôi phát hiện ra là nó ngó cũng… dễ thương. Càng ngày nó trông càng "người lớn". áo dài mặc thẳng tưng nếp ủi. Mái tóc bỗng đen mượt, kẹp gọn sau lưng. Giờ ra chơi, nó cùng mấy nhỏ bạn ưa đứng dưới gốc cổ thụ giữa sân, nhìn qua mấy anh lớp trên, cười khúc khích. Tui chạy qua, vểnh tai xem tụi nó nói gì, hoá ra là rủ nhau tối ra chòi vịt giữa ruộng hóng mát. Bỗng nghe tiếng Ngọc giãy nảy: "Thôi, Ngọc sợ ma lắm…"

Tối, ăn cơm xong, tui ôm mền lén ra ngoài đồng. Chòi vịt dựng lên để những chủ ruộng ngủ lại, canh trộm vào mùa thu hoạch dưa, mùa này đang bị bỏ hoang. Tui núp sau tấm đan lá dừa khô. Kế hoạch nhát ma đã vạch ra: Đợi tụi con gái vô chòi, tui sẽ trùm mền, lò mò đi vô. Tranh tối tranh sáng, tụi nó sẽ chết khiếp! Và tôi sẽ thắng nhỏ Ngọc keo này. Đợi chừng nửa tiếng, mấy con nhỏ chui vô chòi, thắp cây đèn dầu, rồi xúm vô đọc to thư một anh lớp trên gởi cho nhỏ Ngọc, cùng cười rúc rích. Rồi một con nhỏ bỗng hỏi: "Mầy thấy anh đó sao?" Ngọc cười ngượng nghịu: "ừa, thấy người ta cũng dễ thương…" Tự dưng, tui xô tấm đan, bỏ chạy. Tụi con gái giật mình, ôm chầm lấy nhau, la í ới. Nhưng tui chẳng còn thấy vui...

Bao nhiêu năm đã qua. Mỗi khi nhớ tới nhỏ bạn đậu đỏ nước dừa, lòng tui vẫn thoáng buồn. Sao lần nào Ngọc cũng thắng tui? Sao cái lần cuối cùng, dù chẳng hề cố ý ra tay, nó lại làm tui buồn nhứt? Tại con gái lúc nào cũng lớn trước con trai, phải không?

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2009

Câu chuyện về cỏ bốn lá

Câu chuyện về cỏ bốn lá - lucky clover
11/11/2009 10:57:25

Mỗi lá trên ngọn cỏ bốn lá tượng trưng cho một thứ quý giá nhất của cuộc sống. Bạn đã tìm được cỏ bốn lá cho mình chưa?



Câu chuyện kể rằng đứa bé trên thế gian cam đảm bước vào rừng sâu, đi mãi đi mãi qua bao thác ghềnh với một trái tim dũng cảm sẽ tìm được loại cỏ bốn lá (four-leaf clover) - loại cỏ sẽ mang lại nụ cười hạnh phúc mãi mãi - nụ cười hạnh phúc của trẻ thơ. Khi tìm được ngọn cỏ bốn lá, đứa trẻ sẽ đứng trong gió, đặt ngọn cỏ vào trái tim nồng ấm và hát khúc ca đồng dao. Mỗi lá trên ngọn cỏ tượng trưng cho một thứ quý giá nhất của cuộc sống.




co4la.jpg





Lá thứ nhất đứa bé thì thầm: đó là niềm hi vọng
Lá thứ hai đứa bé mỉm cười: là niềm tin
Lá thứ ba : là tình yêu
Và lá cuối cùng: là sự may mắn.


3la.bmp





Bốn món quà thượng đế ban tặng cho mỗi đứa trẻ khi chúng mới ra đời nhưng để tìm được chúng đứa trẻ ấy phải mãi đi tìm, tìm trong rừng sâu của cuộc đời với trái tim dũng cảm...Truyền thuyết vẫn tiếp tục đến ngày hôm nay, và truyền thuyết mãi là truyền thuyết vì mỗi đứa trẻ sinh ra lớn lên mãi đi tìm công danh và sự nghiệp nên chúng lãng quên con đường tìm đến với ngọn cỏ bốn lá mà thượng đế trao cho. Đến khi chúng vấp ngã, chúng mới nhớ đến khúc đồng dao của ngày xưa. Chúng thẫn thờ và than thở:

“Where is my four-leaf clover?”
Nhưng đứa trẻ đâu biết thượng đế trên cao đang mỉm cười:
Khi đứa trẻ đau vì vấp ngã, đó là tình yêu
Khi đứa trẻ tin rằng mình không cô độc khi vấp ngã, đó là niềm tin
Khi đứa trẻ nhìn thấy những đứa trẻ khác còn đau khổ hơn mình, đó là sự may mắn
Và khi đứa trẻ nghĩ rằng mình phải đứng dậy là đi tiếp, đó là niềm hi vọng

Where is my four-leaf clover?
Where is my four-leaf clover?
Where is my four-leaf clover?
Where is my four-leaf clover?
Where is my four-leaf clover?

Thứ Ba, 3 tháng 11, 2009

Mô hình kinh doanh

Thế giới thời trang trên internet

- Giới tiệu dịch vụ: Sẽ có một trang web, trên trang web đó cho phép mọi người có thể lên xem mẫu trang phục mà mình ưa thích. Sau đó đặt mua. Ở đây chúng tối cung cấp rất nhiều mẫu thời trang cho phái đẹp phù hợp với các mùa khác nhau.

Tại sao khách hàng lại mua sản phẩm dịch vụ của bạn:

Hiện nay,có rất nhiều shop thời trang mở ra nhưng nhiều bạn trẻ vẫn muốn chọn cho mình một bộ trang phục phù hợp mà không đụng hàng.Chính vì vậy, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng đặc biệt là phái đẹp chúng tôi luôn tạo ra các mẫu thời trang độc nhất, với gía cả vô cùng hợp lý.Với các bộ trang phục do chúng tôi tự thiết kế với đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm tay nghề cao đã qua các lớp đào tạo trong và ngoài nước đảm bảo quý khách hàng sẽ có được bộ trang phục cực kì ấn tượng. Bên cạnh đó, cuộc sống hiện đại ngày nay không phải ai cũng có thời gian để lang thang hàng giờ liền ở các trung tâm mua sắm để chọn cho mình một bộ trang phục ưng ý.Bên cạnh đó, bạn phải chen lấn và xếp hàng vào giờ cao điểm để chờ thanh toán. Do đó, khách hàng có thể sẽ sử dụng dịch vụ của chúng tôi.Đến với chúng tôi các bạn sẽ vô cùng hài lòng với chất lượng và dịch vụ vô cùng tốt.

Mô hình doanh thu của bạn là gì?

- Sau khi đặt hàng, khách hàng sẽ lựa chọn hai phương thức thanh toán sau:

+ Trả tiền mặt khi giao hàng: Khách hàng nhận đúng hàng đã đặt mua thì mới trả tiền.

+ Chuyển khoản ngân hàng: Thông qua ATM hoặc giao dịch trực tiếp tại ngân hàg, Quý khách có thể đặt hàng cho chúng tôi và chuyển tiền vào tài khoản của chúng tôi sau khi kiểm tra xong chúng tôi sẽ chuyển hàng đến trong thời gian nhanh nhất cho quý khách. Bảo đảm uy tính.

Quý khách cần lưu ý chúng tôi sẽ giao hàng miễn phí trong phạm vi thành phố Huế, ngoài ra chúng tôi sẽ tính thêm cước vận chuyển vào hoá đơn thanh toán của các bạn

Cơ hội thị trường của chúng ta:

- Trang web bán áo quần trên mạng chỉ mới phổ biến ở Sài Gòn và Hà Nội. Nhưng tại thành phố Huế và Đà Nẵng thì vẫn chưa hình thành. Do đó, chúng tôi kinh doanh lĩnh vực này rất thuận lợi.

Bạn nhắm vào phân khúc thị trường nào và quy mô của nó là bao nhiêu?

- Đa số khách hàng của tôi trong độ tuổi khoảng từ 18 đến 35 tuổiQuy mô: trên toàn quốc.

Ai là nhà cạnh tranh với bạn trong phân khúc thị trường đó?

- Các shop đang có sẵn trên thị trường và các trung tâm thương mại trên địa bàn

- Các trang web cung cấp dịch vụ bán áo quần thời trang trực tuyến như ( VD: enbac.com hoặc http://www.maymayfashion.com)

Lợi thế cạnh tranh:

- Sự tiện lợi: Với mục đích tiết kiệm thời gian và mang lại sự tiện lợi, dịch vụ mua sắm qua mạng phù hợp với cuộc sống hiện đại ngày nay. Giờ đây, bạn có thể ngồi nhà và thoải mái mua sắm áo quần với nhiều mẫu mã phong phú.

- Giá rẻ: Chúng tôi thiết lập mối quan hệ với các nhà máy, mua vải và tìm đến các nhà thiết kế để điều chỉnh và thiết kế quần áo, tất cả đều do chúng tôi tự làm nên giá cả có thể được đưa xuống mức rất thấp.

- Thời gian: giao hàng nhanh chóng, tiện lợi, an toàn, chi phí thấp.

- Được các chuyên gia tư vấn chọn bộ trang phục cho phù hợp

- Bộ trang phục đảm bảo không bao giờ đụng hàng mà luôn làm nổi bật cá tính của bạn

Bạn sẽ quảng bá sản phẩm của bá trong phân khúc đó như thế nào?

- Quảng bá trên các trang web, forum thời trang.

- Quảng bá trên các trang mạng xã hội: lập 1 group hoặc fanpage trên facebook, là nơi chia sẻ các mẫu thời trang đẹp, chia sẻ kinh nghiệm thiết kế, chia sẻ các cách làm đẹp cho mọi người
Chiến lược thị trường của chúng ta:

- Dẫn đầu về chi phí

Cơ cấu tổ chức: một người điều hành chung và 2 bộ phận chính

- Bộ phận chăm sóc khách hàng: vào web, đồng thời lên Yahoo Chat để trả lời những thắc mắc của khách hàng về chất liệu, kiểu dáng, số đo... của sản phẩm. giải đáp thắc mắc của khách hàng, là nơi nhận những yêu cầu hơi rắc rối, phức tạp

- Bộ phận giao hàng: Đối với những khách hàng không có thời gian thì chúng tôi mang hàng đến cho họ lựa chọn và thử(tại thành phố Huế), còn với những ai đã đặt hàng rồi sẽ giao hàng cho họ.

Lãnh đạo của ta có phẩm chất phù hợp?

- Có tài quản lý

- Am hiểu về tin học

- Có khả năng nắm bắt tâm lý, xu hướng nhu cầu thị trường.

_ Am hiểu về lĩnh vực thời trang

- Có khả năng ứng xử tình huống nhanh

Buzz maketing

Buzz Marketing (Marketing tin đồn):

Buzz Marketing là việc dùng tin đồn để tác động vào đối tượng muốn hướng đến của doanh nghiệp. Tin đồn có thể giúp cho dự án kinh doanh của công ty bạn đạt được thành công ngoài dự kiến? Đó là kinh nghiệm thực tế của những sản phẩm siêu thành công nhờ tin đồn: Viagra, mẫu xe Beetle Volkswagen mới, đồ chơi trẻ em Beanie… Nhưng làm thế nào để tạo ra tin đồn có lợi cho công ty bạn? Đâu là điểm chung giữa Viagra, mẫu xe Beetle Volkswagen mới, đồ chơi trẻ em Beanie và các cuốn truyện Harry Potter?

TỪ Ý TƯỞNG…

Chúng đều là những sản phẩm thương mại siêu thành công nhờ những lời truyền miệng hay những tin đồn (buzz).

Tin đồn lan truyền khi người ta kể cho nhau nghe về những kinh nghiệm đáng nhớ và tốt đẹp của bản thân, làm nảy sinh những nhu cầu tự sinh và dễ bùng phát. Điều này nghe có vẻ như là may mắn đơn thuần? Thực tế, bạn có thể tận dụng lời lẽ truyền miệng – nếu bạn hiểu được mối quan hệ tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các khách hàng.
Bước thứ nhất: Cần tránh năm sự ngộ nhận về tin đồn sau đây. Nếu để cho mình trở thành nạn nhân của những quan niệm sai lầm này tức là bạn đã vô tình để cho tin đồn lợi dụng mình.

… TỚI THỰC TẾ

Năm ngộ nhận về tin đồn:

1. Chỉ có các sản phẩm siêu việt mới tạo được tin đồn.

Thực tế: Tin đồn có thể ảnh hưởng đến cả những sản phẩm không ngờ nhất trong hầu hết các lĩnh vực, bởi vì những công nghệ mới như Internet sẽ giúp cho khách hàng nhanh chóng loan tin hơn.

Các sản phẩm dễ làm cho tin đồn lan truyền nhanh chóng có thể có đặc điểm là:
* Độc đáo về mặt tính năng, dễ dàng sử dụng hay giá cả phải chăng (Chẳng hạn như xe đẩy scooter có thể gấp lại được).

* Có tính hữu hình cao (Chẳng hạn như các thiết bị cá nhân cầm tay hỗ trợ kỹ thuật số PDA).

Ví dụ: Hãng dược phẩm Pfizer đã phổ cập thuật ngữ y tế “erectile dysfunction” và “ED” (Rối loạn cường dương hay Liệt dương) làm cho một đề tài vốn được xem là cấm kị thành chuyện có thể công khai bàn luận cả trong phòng ngủ lẫn ngoài đường. Sản phẩm Viagra của công ty hiện nay là một trong những loại thuốc được nhắc đến nhiều nhất trên thế giới - ngay cả giữa những người không sử dụng chúng.

2. Tin đồn tự nhiên diễn ra.

Thực tế: Các chiến lược marketing độc đáo mới giúp tạo ra tin đồn. Có thể ví dụ một số chiến lược hiệu quả như sau:

Hãy là người tiên phong — người định hướng dư luận quần chúng. Hãng thời trang Abercrombie & Fitch thuê những sinh viên nổi bật tại các trường đại học làm người mẫu ngày. Họ thường xuyên mặc đồ của hãng này và qua đó khẳng định phong cách thời trang của hãng. Kết quả là, điều này tạo ra và tăng cường nhận thức của các khách hàng về tính độc đáo của sản phẩm

* Hạn chế nguồn cung. Volkswagen làm cho khách hàng tăng thêm khát vọng sở hữu mẫu xe cổ Beetle[1] của hãng bằng cách chỉ rao bán xe với số lượng hạn chế qua mạng Internet. Kết quả: Một nửa số xe Beetle đã sản xuất được tiêu thụ nhanh chóng chỉ trong vòng hai tuần

*Tạo ra và tận dụng các danh sách — để tập trung sự chú ý của người tiêu dùng vào sản phẩm.

Ví dụ: Khi Thư viện Modern công bố danh sách 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20 trên website của mình, họ đã mở ra diễn đàn tranh luận về quá trình lựa chọn này với hơn 1000 bài viết. Sự kiện này giúp một số đầu sách lọt vào danh mục những tác phẩm bán chạy nhất trên website Amazon.com - và tăng lưu lượng truy cập vào website của Thư viện Modern lên đến 7000%.

*Nuôi dưỡng những hạt giống của bạn — những khách hàng đầu tiên, trung thành là những người sẽ giúp lôi kéo các khách hàng khác đến với bạn.

Ví dụ: Hãng xe Harley - Davidson đã tránh được thảm họa phá sản cận kề nhờ vào lòng trung thành và cá tính mạnh mẽ của những khách hàng lâu năm thông qua các hội đoàn, đại hội và bản tin thường kì của Harley Owners Group (Nhóm những hội viên dùng xe Harley). Hơn 350.000 hội viên dùng xe Harley thuộc 1.000 hội đoàn trên khắp thế giới đã góp phần cứu vớt sự sụp đổ của hãng.

3. Người khởi tạo tin đồn chính là những khách hàng tốt nhất của bạn

Thực tế: Những người tiên phong lý tưởng có thể khiến bạn phải ngạc nhiên. Nhà thiết kế Tommy Hilfiger thoạt tiên chỉ muốn đưa nét bụi bặm của thời trang đường phố vào những sản phẩm mới của anh để phục vụ cho đối tượng khách hàng trẻ tuổi người Mỹ gốc Phi trong thành phố. Tuy nhiên, sản phẩm thời trang do Tommy thiết kế đã nhanh chóng nổi tiếng và lan tới các vùng ngoại ô – thu hút khách hàng từ nhiều chủng tộc khác nhau.

4. Để có lợi từ tin đồn, bạn phải là người hành động đầu tiên.

Thực tế: Các công ty ăn theo có thể thu lợi từ tin đồn - bằng cách xâm nhập thị trường ngay khi có một xu hướng nào đó bắt đầu xuất hiện và được ưa thích.

Ví dụ: Hãng Revlon, người khổng lồ trong ngành công nghiệp mỹ phẩm với một lượng khách hàng trung thành rộng khắp đã thành công ngoài tưởng tượng khi tung ra dòng sản phẩm sơn móng tay mới sau khi xuất hiện một trào lưu tương tự do một sinh viên đại học đề xướng. Revlon đã tiết kiệm được tối đa thời gian và chi phí dành cho việc phát triển sản phẩm.

5. Truyền thông và quảng cáo tạo ra tin đồn.

Thực tế: Các hoạt động xúc tiến quảng cáo sớm và quá rầm rộ có thể gây khó chịu cho những người đầu tiên sử dụng sản phẩm. Thay vào đó, hãy để khách hàng tự bàn tán và ngẫu nhiên sử dụng sản phẩm của bạn.

Ví dụ: Khi dịch vụ e-mail miễn phí của Hotmail đính thêm dòng chữ quảng cáo “Hãy lập một e-mail miễn phí của riêng bạn tại Hotmail” vào e-mail của những khách hàng đang sử dụng dịch vụ này, đã có 12 triệu người đăng kí sử dụng dịch vụ chỉ trong vòng 18 tháng - một lượng khách hàng khổng lồ mà hãng AOL phải mất tới sáu năm mới có được.

Như vậy sự khác biệt cơ bản và cũng là mấu chốt của marketing virus và phương thức marketing “truyền miệng” truyền thống là đặc tính lây lan (viral) có được từ sự nhiệt tình, nhiệt huyết của khách hàng cộng với sự kết hợp nhiều phương tiện truyền thông mà điển hình là Internet.

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2009

Viral marketing


Viral marketing (Marketing virus hay Marketing lan truyền):

Thuật ngữ Viral Marketing được đưa ra bởi giáo sư Jeffrey F. Rayport ở Trường kinh doanh Harvard tháng 12 năm 1996, trong một bài báo trên tạp chí Fast Company mang tên The Virus of Marketing. Thuật ngữ sau đó được phổ biến rộng hơn bởi Tim Draper và Steve Jurvetson, những người sáng lập hãng Draper Fisher Jurvetson vào năm 1997 để miêu tả dịch vụ thư của Window Live Hotmail kèm dịch vụ quảng cáo cho chính hãng này thông qua người sử dụng

Viral marketing là gì? Nó được định nghĩa dựa trên nguyên tắc lan truyền thông tin, cũng tương tự như cách thức virus lan truyền từ người này sang người khác với tốc độ cấp số nhân.

Với phương pháp này nhà tiếp thị sẽ tạo được một hiện tượng trong xã hội bằng cách khuyến khích các đối tượng truyền tải thông điệp một cách "tự nguyện". Thông điệp chuyển tải có thể là một Video clip, câu chuyện vui, Flash game, ebook, software, hình ảnh hay đơn giản là một đoạn text. Cho đến nay thì chưa có ai tổng kết có bao nhiêu loại hình Viral Marketing.

Bí quyết để có một chương trình Viral Marketing:

Người nhận cảm thấy cần phải gửi thông điệp này cho người khác một cách tự nhiên.

Ví dụ:

Một ngày nào đó bạn nhận được một Email yêu cầu bạn giải đáp các câu đố sau:
1. Làm thế nào để bỏ 1 con voi vào trong tủ lạnh? => Mở tủ lạnh và bỏ con voi vào :.)
2. Làm thế nào để bỏ 1 con hươu cao cổ vào trong tủ lạnh? => Mở tủ lạnh và bỏ con hươu cao cổ vào. Sai rồi :.( bạn phải bỏ con voi ra để có chổ cho con hươu cao cổ vào chứ. :.)
3. Trong rừng Chúa Sơn lâm triệu tập mọi người về họp, mọi con vật đều có mặt chỉ thiếu 1 con, hỏi là con gì? Con hươu cao cổ đó bạn, nó còn đang ở trong cái tủ lạnh kìa :.)
4. Trong rừng có 1 con suối nổi tiếng với đàn cá sấu dữ tợn làm sao để vượt qua? Hehehe mọi người đều bị chúa Sơn lâm triệu tập rồi mà!!! Đơn giản là, lội qua con suối thôi!!!.

Thú vị chứ hả! Để xem ai kia có trả lời được không!!!

Và nếu các câu đố được thiết kế cùng 1 logo xinh đẹp, bạn có thể tự đánh giá được hiệu quả!!!

Giống như cách thức lan truyền của một con virus. Hình thức quảng cáo này bắt đầu từ giả thuyết một khách hàng luôn kể cho người khác nghe về sản phẩm hoặc dich vụ của bạn mà khách hàng cảm thấy hài lòng khi sử dụng. Viral Marketing mô tả chiến thuật khuyến khích một cá nhân nào đó lan truyền một nội dung tiếp thị, quảng cáo đến những người khác, tạo ra một tiềm năng phát triển theo hàm mũ sự lan truyền và ảnh hưởng của một thông điệp như những con vi rút.

Các chiến dịch như vậy đã lợi dụng vào sự nhân rộng nhanh chóng để làm bùng nổ một thông điệp đến hàng ngàn, hàng triệu lần.

Nhưng để tạo ra một chiến dịch Viral Marketing có hiệu quả thì thật sự không dễ chút nào, bạn cần phải làm cho “virus” của mình là duy nhất, lôi cuốn, nó phải mang tính cá nhân và được truyền đi bằng sự cộng tác “đôi bên cùng có lợi”…

Theo kết quả thống kê của một công trình nghiên cứu thì chỉ có:

· 18% quảng cáo trên ti vi tạo ra một tỉ lệ hoàn vốn đầu tư khả quan.

· 84% các chiến dịch B2B mang lại mức doanh thu ngày càng thấp.

· 100% việc đầu tư thêm vào quảng cáo chỉ để tạo ra thêm 1% - 2% doanh thu.

· 14% người tiêu dùng tin vào quảng cáo.

· Và 69% người tiêu dùng thích công nghệ ngăn chặn quảng cáo

Từ các số liệu “biết nói” này đã cho chúng ta nhận thấy rằng: Tiếp thị và quảng cáo truyền thống ngày càng trở nên lộn xôn, không đáng tin cậy; kém hiệu quả, chi phí cao hơn mà tỉ lệ hoàn vốn đầu tư lại thấp. Một triết lí đơn giản là: “...bất kì một chiến lượt Marketing tốn tiền bac nào mà không tạo ra tiền cho bạn đều là một chiến dịch Marketing phí tiền bạc…” (Kirk Cheyfitz, CEO, Story Worldwide); và kèm theo đó các nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra một điều thú vị: trung bình thì một người có: 11 - 12 mối quan hệ mật thiết, khoảng 150 mối quan hệ xã hội, và từ 500 đến 1500 các quan hệ lỏng lẻo khác… Chính vì vậy, mà các nhà kinh tế đã tìm ra một “giải pháp” mới cho ngành tiếp thị hiện nay và nó đã dần dần khẳng định được sức mạnh của mình – “Sức mạnh của Word Of Mouth Marketing”.

5 nguyên tắc trong chiến lược marketing lan truyền:

a..Cung cấp một sản phẩm hay dịch vụ miễn phí.

b.Khi sản phẩm hay dịch vụ miễn phí của bạn thu hút được người khác quan tâm, họ sẽ sử dụng chúng và họ sẽ gửi chúng cho bạn bè v.v… Thế là họ đã giúp bạn quảng cáo rồi đấy! Bạn không phải làm gì cả!

c.Bạn phải chuẩn bị tinh thần cho trường hợp số lượng người sử dụng sản phẩm hay dịch vụ miễn phí của bạn sẽ tăng lên rất nhanh.

d.Bạn nên nghiên cứu hành vi, sở thích và động lực sử dụng sản phẩm hay dịch vụ miễn phí của bạn của mọi người để có chiến lược phù hợp hơn.

e.Tận dụng những mối quan hệ của “khách hàng” của bạn để quảng bá sản phẩm hay dịch vụ của bạn.

Marketing virus và quảng cáo virus là những thuật ngữ nhằm ám chỉ các kĩ thuật marketing sử dụng những mạng xã hội sẵn có để tác động và làm tăng cường sự nhận biết nhãn hiệu của công chúng, thông quá các quá trình tự nhân bản của virus, tương tự như quá trình tự nhân bản của virus máy tính.

Biện pháp Marketing này có thể là lời truyền miệng hoặc được trợ giúp bởi các ảnh hưởng của mạng Internet. Marketing virus là hiện tượng marketing tạo điều kiện và khuyến khích mọi người truyền đi thông điệp marketing của chính công ty một cách tự nguyện và vô tình.

Thông thường người ta nhận thấy, cứ một khác hàng hài lòng sẽ kể cho ít nhất 3 người nữa về sản phẩm mà họ thích, và 11 người khác về sản phẩm/dịch vụ mà họ không thích. Chiến lược marketing virus được tạo ra dựa trên hành vi tự nhiên này của con người.